Câu tục ngữ “Chúa Chổm” hay “nợ như chúa chổm” là cách mô tả những người có nợ nần khó trả. Từ việc tìm hiểu từ những nghiên cứu văn hóa dân gian và các tài liệu lịch sử, có thể thấy “Chúa Chổm” là một nhân vật có thật, liên quan đến một địa danh ở huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa.
Vùng đất thuộc phủ Mường Khoòng – nơi “Chúa Chổm” được sinh ra và lớn lên. Ảnh: Lê Đồng
Bạn đang xem: Phát hiện thú vị về tích “chúa chổm” tại Thanh Hóa
Tại một căn nhà sàn gần sông Mã ở thị trấn Cành Nàng, huyện Bá Thước, nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Hà Nam Ninh giới thiệu một cuốn sách cổ viết bằng tiếng Thái. Ông Ninh là người dân tộc Thái, đã dành nửa đời để đi điền dã, sưu tầm và nghiên cứu văn hóa dân gian ở khu vực miền núi Thanh Hóa. Cuốn sách này do ông tự sưu tầm tại một gia đình ở xã Lũng Cao – hậu duệ của một quan lại địa phương thuộc phủ Mường Khoòng trong thời kỳ xưa tên là Hà Văn Yên. Cuốn sách cổ này ghi chép về lịch sử vùng Mường Khoòng, những cuộc chiến tranh, các vị quan và các triều đại phong kiến. Hai nhân vật quan trọng nhất trong cuốn sách là tạo mường Hà Nhân Chính và quan bản Dôộc (nay là bản Thành Công, xã Lũng Cao) Hà Văn Yên vào thế kỷ XVI. Chính hai người này đã che giấu Vua Lê Trang trong thời kỳ nhà Hậu Lê bị nhà Mạc truy sát.
Xem thêm : Trần Trọng Kim
Khi ông Hà Nam Ninh dịch từng trang sách viết bằng chữ Thái trên nền giấy cũ, ông chia sẻ với chúng tôi những chi tiết liên quan đến “Chúa Chổm”. Trong một thời kỳ loạn lạc, một phụ nữ mang bầu đã tới vùng đất Mường Khoòng để xin nơi trú ẩn trước sự truy sát. May mắn thay, cô gặp được quan bản Dôộc, một người tốt bụng, và được ông đưa vào một hang đá ở vùng núi để sinh con mà không bị phát hiện. Sau này, cô phụ nữ sinh được một cậu con trai xinh đẹp. Cậu bé được quan Dôộc và người dân địa phương chăm sóc và che chở. Cậu bé nhanh chóng trưởng thành và sau ít năm đã biết đi chăn trâu, đánh cù cùng với các bạn trong bản. Người ta thường gọi cậu bé là Chù Chốm, theo ngôn ngữ Thái địa phương có nghĩa là “giấu trộm”. Năm 1533, khi cậu bé đã trưởng thành, quan Tày Ngự Nguyễn Kim cùng các quan tài đã tìm thấy cậu và đưa cậu đi để trở thành vua. Khi đó, mọi người mới biết về thân thế của cậu. Cậu bé Chù Chốm chính là hoàng tử Lê Duy Ninh, con của Vua Lê Chiêu Tông và phi tần Phạm Thị Ngọc Quỳnh. Sau này, ông Lê Duy Ninh trở thành vua với tên hiệu là Lê Trang Tông.
Theo ông Hà Nam Ninh, khi ông trở thành vua, việc đọc chữ Thái theo tiếng Kinh có thể đã khiến chữ Chù Chốm được phát âm là “Chúa Chổm”. Ngày nay, cộng đồng dân tộc Thái ở vùng Bá Thước, Quan Hóa vẫn duy trì câu chuyện này theo truyền thống dân gian. Dù cuốn sách cổ viết bằng tiếng Thái của ông Ninh không cung cấp chính xác lịch sử, nhưng nhiều tài liệu lịch sử khác cũng đề cập đến câu chuyện này. Cuốn sách “Lịch triều hiến chương loại chí” được ghi chú: “Nguyễn Kim tìm thấy Lê Duy Ninh ở vùng thượng du Thanh Hóa, đưa về Ai Lao để trở thành vua”. Sách “Đại Việt thông sử” của Lê Quý Đôn cũng có đề cập đến câu chuyện tương tự. Theo lịch sử các triều vua thời Hậu Lê, Vua Lê Trang Tông sinh năm 1515, mất năm 1548, là vị vua thứ 12 của nhà Hậu Lê và vị vua đầu tiên thời Lê Trung hưng. Năm 1533, khi ông 17 tuổi, các quan công thần đã đón ông về để tái lập nhà Lê và chống lại nhà Mạc, từ đó mở ra giai đoạn Nam – Bắc triều.
Xuất bản vào năm 2015, cuốn “Địa chí huyện Bá Thước” dày hơn 1.000 trang của Nhà Xuất bản Lao động cũng dành nhiều không gian để nói về sự kiện thái tử Lê Duy Ninh được che chở tại vùng Mường Khoòng. “Bá Thước là nơi nuôi dưỡng Chù Chốm ở bản Dôộc thuộc Mường Khoòng. Tại đây, ông Lượng Quốc Công và ông Tày Ngự đã đến và đưa Chù Chốm trở thành vua. Ông Mường Khoòng họ Hà đã kết nghĩa anh em với ông Tày Ngự họ Nguyễn và ông Lượng Quốc Công họ Trịnh. Mối quan hệ này đã kéo dài suốt mấy thế kỷ sau này. Ông Mường Khoòng theo vua và trở thành quan nội phủ, trông coi công việc bên cạnh vua. Từ đó, có xã Ban Công, có nội phủ và phủ Mường Khoòng…” (cuốn sách đã trích, trang 346).
Về việc “Chúa Chổm” khi còn sống cùng dân trong vùng có “nợ nần” như quan niệm dân gian, chưa có bất kỳ tài liệu chính sử nào ghi chép về điều này. Theo ông Hà Nam Ninh, trong cuốn sách tiếng Thái mà ông có, cũng không có bất kỳ thông tin nào về tình trạng nợ nần của vị vua trong giai đoạn này. Thậm chí ở nhiều vùng Mường – Thái thuộc các huyện phía Tây Thanh Hóa, nơi câu chuyện về Chúa Chổm lưu truyền và được dân chúng che chở, nhưng không có thông tin về nợ nần. Tuy nhiên, các tài liệu lịch sử địa phương ghi lại câu chuyện rằng sau khi trở thành vua, Lê Trang Tông đã có nhiều thành công trong sự nghiệp trung hưng của nhà Lê và ông nhớ công ơn dân chúng đã che chở mình từ trước đó. Vì vậy, ông sai Thái Ý Lân mang đến 52 gánh của cải để trả ơn vùng Mường Khoòng. Nơi tổ chức lễ ban thưởng công trạng sau đó đã được đổi tên thành xã Ban Công ngày nay. Cả vùng Mường Khoòng sau này đã được gọi là Quốc Thành (bao gồm 5 xã: Lũng Cao, Thành Sơn, Thành Lâm, Lũng Niêm và Cổ Lũng – PV), lấy ý từ lời của Vua Lê Trang Tông rằng “thành quốc, thành nước đến từ mảnh đất này”.
Xem thêm : Ngọc Trinh: Thông tin tiểu sử của người mẫu, “nữ hoàng nội y”
Trong lễ ban thưởng công trạng như trên, quan bản Dôộc Hà Văn Yên – người được Vua Lê Trang Tông gọi là bố nuôi – đã không giữ lại vật phẩm của mình và đã chia tổng số lộc cho mọi người liên quan trong vùng. Tuy nhiên, không đủ để phân phát cho tất cả mọi người. Vì những chi tiết như vậy, nhiều nhà nghiên cứu văn hóa và quan điểm dân gian cho rằng, vua vẫn còn nợ rất nhiều. Tại đây, nợ có thể hiểu là nợ tình, nợ nghĩa mà không thể trả nổi, không chỉ nợ với người cha nuôi mà còn với cả cộng đồng dân chúng đã che chở mình từ trước đó. Có thể qua nhiều thế hệ, cụm từ “chúa chổm” đã được sử dụng để ám chỉ những người có nợ nần chồng chất (?).
Khi kết hợp toàn bộ câu chuyện với các sự kiện và thời gian, cả chính sử, dã sử và những câu chuyện mà ông Hà Nam Ninh đã sưu tầm trong dân gian có nhiều điểm trùng khớp. Tuy nhiên, trên thực tế, vẫn còn một số phiên bản khác về câu chuyện “Chúa Chổm” với nhiều chi tiết có tính chất hư cấu, không được chứng minh thuyết phục.
Thông qua các tài liệu của huyện Bá Thước, ngôi phủ Mường Khoòng cũng được thành lập trong giai đoạn này. Ngày nay, dấu tích của ngôi phủ này vẫn còn qua những tác phẩm điêu khắc đá như voi và ngựa, hiện đang nằm trong khuôn viên trường THCS xã Cổ Lũng. “Trước đây, có một tấm bia khắc chữ Hán đã bị gãy làm đôi và bị mất. Tại làng Eo Kén, xã Thành Sơn, vẫn còn mộ cho rằng là mẹ của vua. Mộ này vẫn còn một phiến đá cao hơn 2m đứng như tục lệ chôn cất người Mường, vì bà Phạm Thị Ngọc Quỳnh là người Mường” – ông Hà Nam Ninh cho biết.
Lê Đồng
Nguồn: https://stamboom-boden.com
Danh mục: Là Ai