ĐƯỜNG DÂY NÓNG

Căn cứ pháp lý: Điều 3 Luật Công nghệ cao 2008

Công nghệ cao là công nghệ có nhiều nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; tích hợp từ thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại; tạo ra sản phẩm có chất lượng, tính năng vượt trội, giá trị gia tăng cao, thân thiện với môi trường; có vai trò quan trọng đối với việc hình thành ngành sản xuất, dịch vụ mới hoặc cải tiến các ngành sản xuất, dịch vụ hiện có.

2. Khái niệm tội phạm sử dụng công nghệ cao

Xét về khái niệm “tội phạm sử dụng công nghệ cao”, hiện nay luật pháp của nhiều nước như Australia, Mỹ, Anh đã có định nghĩa liên quan đến tội phạm này như: Tội phạm công nghệ cao; tội phạm máy tính; Tội phạm liên quan đến máy tính; tội phạm mạng… Ví dụ trong luật hình sự năm 1995 của Australia và phần 10.7 của luật Thịnh vượng chung (Commonwealth legislation – Part 10.7: Computer Offences), tội phạm công nghệ cao được định nghĩa là sự xâm nhập máy tính trái phép; sửa đổi trái phép dữ liệu bao gồm việc phá hủy dữ liệu; tấn công từ chối dịch vụ (DoS); Tấn công từ chối dịch vụ phân tán (DdoS) có sử dụng botnets; tạo ra và phân phối phần mềm độc hại.

Theo Từ điển luật học Black’s Law, tội phạm máy tính được định nghĩa là “tội phạm đòi hỏi về kiến thức công nghệ máy tính chẳng hạn như phá hoại hoặc ăn cắp dữ liệu máy tính hay sử dụng máy tính để thực hiện một số tội phạm khác”.

Tại Việt Nam, theo Nghị định số 25/2014/NĐ-CP của Chính phủ ngày 07 tháng 4 năm 2014 quy định: “Tội phạm có sử dụng công nghệ cao là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự có sử dụng công nghệ cao”. Theo Luật Công nghệ cao năm 2008 quy định: Công nghệ cao là công nghệ có nhiều nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; tích hợp từ thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại; tạo ra sản phẩm có chất lượng, tính năng vượt trội, giá trị gia tăng cao, thân thiện với môi trường; có vai trò quan trọng đối với việc hình thành ngành sản xuất, dịch vụ mới hoặc cải tiến các ngành sản xuất, dịch vụ hiện có. Giáo trình “Những vấn đề cơ bản về phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao” của Học viện Cảnh sát nhân dân cũng có đề cập đến khái niệm về tội phạm sử dụng công nghệ cao.

Theo đó, tội phạm sử dụng công nghệ cao là “Tội phạm được thực hiện bằng cách cố ý sử dụng tri thức, kỹ năng, công cụ, phương tiện công nghệ thông tin ở trình độ cao tác động trái pháp luật đến thông tin số được lưu trữ, xử lý, truyền tải trong hệ thống máy tính, xâm phạm đến trật tự an toàn thông tin, gây tổn hại lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân”.

3. Đặc điểm của tội phạm công nghệ cao

Khái niệm trên đã xác định đầy đủ các thuộc tính của tội phạm sử dụng công nghệ cao như sau:

Thứ nhất, tội phạm sử dụng công nghệ cao xâm phạm vào trật tự an toàn thông tin, gây tổn hại cho lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức cá nhân. Cần nhận thức rằng, khối lượng của các tội phạm sử dụng công nghệ cao là trật tự an toàn thông tin, trong đó, trật tự an toàn thông tin được hiểu là những quy tắc xử sự (pháp lý, đạo đức hoặc quy tắc chuyên môn…) được Nhà nước và xã hội xác lập nhằm đảm bảo an toàn thông tin được lưu trữ, xử lý trong các hệ thống máy tính, quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức trong việc khai thác, sử dụng các thông tin đó.

Trong các hành vi vi phạm công nghệ cao có những hành vi truyền thống xâm phạm an toàn thông tin. Những hành vi đó tác động trực tiếp đến 3 thuộc tính của an toàn thông tin đó là:

Tính bảo mật (Confidentiality): Là khả năng đảm bảo cho thông tin trong hệ thống máy tính không bị tiếp cận, được xem và tiết lộ bởi những người không có quyền.

– Tính toàn vẹn (Integrity): Là khả năng đảm bảo thông tin trên hệ thống máy tính không bị thay đổi hay xoá bỏ bởi những người không có quyền.

– Tính khả dụng (Availability): là khả năng đảm bảo cho thông tin trên hệ thống máy tính luôn sẵn sàng để khai thác, sử dụng bởi những người có quyền khai thác, sử dụng hợp pháp.

Các hành vi truy cập trái phép; cản trở truyền tải dữ liệu; can thiệp vào dữ liệu của mạng máy tính, mạng viễn thông, thiết bị số là những hành vi truyền thống xâm phạm an toàn thông tin vì chúng tác động trực tiếp vào tính bảo mật, tính toàn vẹn và tính khả dụng của mạng máy tính, mạng viễn thông, thiết bị số.

Thứ hai, tội phạm sử dụng công nghệ cao phải là các hành vi được xác định là tội phạm theo quy định của Bộ luật Hình sự. Ở Việt Nam, một hành vi chỉ được coi là tội phạm khi hành vi đó được quy định trong Bộ luật Hình sự. Vì vậy, khi xem xét một hành vi xâm phạm đến trật tự an toàn thông tin, gây tổn hại cho xã hội cần xem xét hành vi đó đã được quy định trong Bộ luật Hình sự hay chưa.

Thứ ba, tội phạm sử dụng công nghệ cao được thực hiện bằng việc sử dụng tri thức, kỹ năng, công cụ, phương tiện công nghệ thông tin ở trình độ cao. Nghiên cứu cách xác định của Công ước Budapest năm 2011 về tội phạm mạng của Liên minh châu Âu cho thấy các hành vi sau đây được chấp nhận phổ biến là tội phạm sử dụng công nghệ cao như: Truy cập bất hợp pháp; cản trở bất hợp pháp việc truyền tải dữ liệu máy tính; can thiệp trái phép vào dữ liệu; can thiệp trái phép vào hệ thống; Sử dụng trái phép thiết bị; giả mạo liên quan đến máy tính; gian lận liên quan đến máy tính; vi phạm liên quan đến hình ảnh trẻ em khiêu dâm; vi phạm quyền tác giả và quyền liên quan qua hệ thống máy tính.

Ngoài những hành vi trên, pháp luật một số nước còn quy định thêm một số hành vi khác là tội phạm sử dụng công nghệ cao. Ví dụ như tại Chương 33A Mục 7 Luật Hình sự bang Texas của Hoa Kì quy định về tội phạm viễn thông (Telecommunications crimes) có quy định các hành vi như: Điều 33A.04: Trộm cắp dịch vụ viễn thông; Điều 33A.05: Công bố thiết bị truy cập viễn thông… Tuy nhiên, để được coi là tội phạm sử dụng công nghệ cao, những hành vi đó phải có sự liên quan như một hệ quả trực tiếp, một sự “kéo dài” của những hành vi truy cập, cản trở bất hợp pháp, can thiệp trái phép vào dữ liệu và mạng máy tính, mạng viễn thông, thiết bị số.

Thứ tư, về chủ thể, tội phạm sử dụng công nghệ cao có thể được thực hiện bởi bất kỳ ai có đủ năng lực trách nhiệm hình sự theo quy định của luật hình sự. Tuy nhiên, xuất phát từ tính chất của hành vi phạm tội, chủ thể trực tiếp thực hiện tội phạm sử dụng công nghệ cao phải là những người có tri thức và kỹ năng cần thiết để trực tiếp khai thác, sử dụng thiết bị, công cụ, phương tiện công nghệ hoặc trực tiếp phát triển, ứng dụng công nghệ.

Thứ năm, tội phạm sử dụng công nghệ cao được thực hiện bởi lỗi cố ý. Khi thực hiện tội phạm sử dụng công nghệ cao, người phạm tội buộc phải ý thức rõ hành vi của mình là trái quy định pháp luật, có thể gây hậu quả xấu cho các tổ chức, cá nhân có liên quan nhưng vẫn thực hiện, mong muốn hoặc để mặc cho những hậu quả xấu xảy ra. Động cơ, mục đích phạm tội sử dụng công nghệ cao không phải là yếu tố bắt buộc trong cấu thành tội phạm. Tuy nhiên, trong thực tế, tội phạm sử dụng công nghệ cao có thể được thực hiện do vụ lợi hoặc vi lợi ích trong cạnh tranh hay giải quyết mâu thuẫn, trả thù cá nhân… hoặc cũng có thể là sự tò mò, thử nghiệm, muốn chứng tỏ khả năng của bản thân.

4. Phân loại trong nghiên cứu tội phạm sử dụng công nghệ cao

Tội phạm sử dụng công nghệ cao được phân loại dựa vào nhiều tiêu chí phụ thuộc vào mục đích nghiên cứu khác nhau. Cách phân loại phổ biến trên thế giới là phân loại tội phạm sử dụng công nghệ cao theo cách thức, mục tiêu thực hiện tội phạm. Ví dụ như trong bài viết: Máy tính và Internet: Dưới góc nhìn tội phạm học, nhóm tác giả Masoud Nosrati, Mehdi Hariri, Alireza Shakarbeygi đã phân loại tội phạm này thành 2 nhóm. Nhóm thứ 1: Tội phạm có mục tiêu chính là mạng máy tính và thiết bị bao gồm: Virus máy tính; Tấn công từ chối dịch vụ; mã độc. Nhóm thứ 2: Tội phạm sử dụng mạng máy tính hoặc thiết bị để làm gia tăng hiệu quả phạm tội bao gồm: Đe dọa quấy rối trên mạng; lừa đảo trộm cắp thông tin nhân thân; chiến tranh thông tin; gửi thông điệp lừa đảo. Tại Việt Nam, trong thực tế nghiên cứu và trong công tác đấu tranh với tội phạm sử dụng công nghệ cao cũng thường chọn cách phân loại theo cách thức, mục tiêu thực hiện tội phạm. Cụ thể, theo hướng dẫn 16/HD-BCA-C41 ngày 31/12/2013 của Bộ Công an quy định về công tác nghiệp vụ cơ bản của lực lượng Cảnh sát nhân dân có hướng dẫn việc phân chia các nhóm đối tượng phạm tội có sử dụng công nghệ cao thành 2 hệ đó là: Hệ xâm phạm hoạt động của mạng máy tính, viễn thông và Hệ lợi dụng mạng máy tính, viễn thông để hoạt động bất hợp pháp.

Theo cách thức phân loại như trên, tội phạm sử dụng công nghệ cao gồm các loại đó là: Tội phạm sử dụng máy tính, thiết bị số, mạng máy tính, mạng viễn thông gây tổn hại tính bảo mật, tính toàn vẹn và tính khả dụng của hệ thống máy tính và Tội phạm sử dụng máy tính, thiết bị số, mạng máy tính, mạng viễn thông làm công cụ, phương tiện phạm tội.

Theo Bộ luật Hình sự số 100/2015/ QH13 tội phạm sử dụng máy tính, thiết bị số, mạng máy tính, mạng viễn thông gây tổn hại tính bảo mật, tính toàn vẹn và tính khả dụng của hệ thống máy tính là nhóm tội phạm sử dụng công nghệ cao xâm phạm trật tự an toàn thông tin, các tội phạm sử dụng công nghệ cao thuộc loại này bao gồm: Tội sản xuất, mua bán, trao đổi hoặc tặng công cụ, thiết bị, phần mềm để sử dụng vào mục đích trái pháp luật; tội phát tán chương trình tin học gây hại cho hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử; tội cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử; tội xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử của người khác.

Tội phạm sử dụng máy tính, thiết bị số, mạng máy tính, mạng viễn thông làm công cụ, phương tiện phạm tội bao gồm các tội phạm truyền thống nhưng được thực hiện với thủ đoạn mới, tức sử dụng công nghệ thông tin để thực hiện tội phạm. Tội phạm này được phân loại thành các loại cụ thể sau:

– Tội phạm sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản như: Sử dụng thông tin tài khoản, thẻ ngân hàng để lừa đảo khách hàng; gửi thông điệp lừa đảo để chiếm đoạt tài sản.

– Tội phạm sử dụng công nghệ cao vi phạm nội dung là những hành vi liên quan đến việc đưa, cung cấp trái pháp luật các thông tin, dịch vụ trên các mạng thông tin, xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức và cá nhân. Một số hành vi thường được coi là tội phạm sử dụng công nghệ cao vi phạm về nội dung là: Lạm dụng, tình dục trên mạng; Xúc phạm danh dự, nhân phẩm người khác hoặc uy tín của các tổ chức trên mạng; đe doạ, quấy rối trên mạng; truyền bá các nội dung kỳ thị chủng tộc, phỉ báng tôn giáo; sử dụng trái phép thông tin riêng qua mạng.

5. Các biện pháp phòng ngừa

– Đối với các điểm giao dịch ngân hàng: Tăng cường giám sát các máy ATM qua camera, kiểm tra trực tiếp, nhất là các máy ATM đặt ở những nơi vắng người qua lại để phát hiện thiết bị lạ gắn trong buồng máy ATM. Phân công nhân viên thường xuyên trực 24/24 giờ đường dây điện thoại nóng để tiếp nhận thông tin phản ánh của nhân dân về tình hình an ninh, trật tự xung quanh máy ATM. Khi phát hiện đối tượng sử dụng thẻ ATM giả để giao dịch nhanh chóng thông báo cho lực lượng công an phường, xã, thị trấn nơi có đặt máy ATM để phối hợp xử lý. Khi khách hàng có hoạt động gửi, chuyển số tiền lớn đi kèm tâm lý lo lắng, bất ổn thì nhân viên ngân hàng nên tư vấn, trao đổi thông báo cho khách hàng về thủ đoạn hoạt động lừa đảo bằng công nghệ cao để khách hàng cảnh giác.

– Đối với người dân: Giữ bí mật thông tin bảo mật các dịch vụ ngân hàng (tuyệt đối không tiết lộ mã PIN thẻ, mật khẩu truy cập, mật khẩu giao dịch một lần OTP, mật khẩu truy cập địa chỉ email với người lạ, kể cả nhân viên ngân hàng). Xác thực người đề nghị thực hiện giao dịch tài chính (không chuyển tiền cho đối tượng khi chưa xác thực; cảnh giác đối tượng giả mạo quen biết thông qua mạng xã hội, email, điện thoại, thư giấy, SMS, mạo danh nhân viên ngân hàng, cơ quan Nhà nước). Kiểm tra thông tin của trang web khi thực hiện giao dịch trực tuyến (chỉ nên thực hiện giao dịch tại các trang web uy tín, có độ bảo mật cao…). Hạn chế sử dụng mạng wifi công cộng, tại quán cafe để đăng nhập, thực hiện giao dịch trên hệ thống ngân hàng điện tử; luôn tải và cập nhật các phần mềm bảo mật, diệt virus, tường lửa mới nhất cũng như phiên bản mới nhất của các ứng dụng cung cấp bởi ngân hàng. Thoát khỏi các dịch vụ và ứng dụng của ngân hàng liên kết với dịch vụ điện tử và các website thương mại điện tử ngay sau khi hoàn thành phiên giao dịch.

– Khi thực hiện giao dịch thẻ

Related Posts