Tổ chức tự quản là gì? Quy định tổ chức, hoạt động của Tổ nhân dân tự quản?

Không có quốc gia nào chỉ thực hiện quyền lực nhà nước của mình tại một địa điểm duy nhất – nơi các cơ quan nhà nước trung ương đặt trụ sở. Vì vậy, sự phát triển của chính quyền địa phương đã dẫn đến việc hình thành cơ quan quản lý địa phương, còn được gọi là chính quyền địa phương. Tính tự quản trong chính quyền địa phương được thể hiện rõ rệt, đặc biệt là trong việc hình thành tổ chức tự quản ở thôn, làng, ..

Tư vấn pháp luật trực tuyến miễn phí qua tổng đài: 1900.6568

1. Tổ chức tự quản là gì?

Tự quản là khái niệm phổ biến, có nguồn gốc lâu đời trong lịch sử chính trị và pháp lý. “Tự quản” có nghĩa là tự mình chăm sóc và quản lý công việc mà không cần ai điều khiển. Tự quản còn được hiểu là tính độc lập tương đối và khả năng tự quyết định của một tổ chức hoặc cá nhân so với quyền lực trung ương. Điều này mang ý nghĩa tự chịu trách nhiệm cao và giúp thể hiện tính sáng tạo, năng động và linh hoạt của chủ thể dưới sự giám sát của nhà nước để đạt được hiệu quả cao nhất (giám sát chứ không phải quản lý, chỉ đạo).

Tổ chức tự quản là một tổ chức được thành lập dựa trên cơ sở bầu cử bởi các công dân trong cùng một cộng đồng để thực hiện các nhiệm vụ quản lý cộng đồng hoặc được nhà nước ủy quyền.

Tổ chức tự quản có thể có nhiều tên gọi khác nhau như tổ nhân dân tự quản, tổ dân cư tự quản, …

Chế độ tự quản làng, xã đã tồn tại từ lâu đời trong chế độ phong kiến Việt Nam và đã trở thành một giá trị bền vững đặc trưng trong sự phát triển của đất nước qua nhiều thời kỳ xã hội.

Tổ chức tự quản trong tiếng Anh được gọi là “Self-governing organization”.

2. Quy định tổ chức, hoạt động của Tổ nhân dân tự quản:

Tổ nhân dân tự quản không có cấu trúc chặt chẽ và không tồn tại mối liên hệ mật thiết giữa các tổ chức. Sự ra đời của tổ nhân dân tự quản chỉ có tính chất gắn kết và hỗ trợ các cơ quan hành chính địa phương. Tổ nhân dân tự quản là một tổ chức gần gũi với dân cư, hiểu rõ tình hình kinh tế – xã hội của địa phương và thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước một cách tốt hơn.

Thực tế cho thấy không có văn bản pháp luật thông nhất quy định về tổ nhân dân tự quản. Sự hình thành và phát triển của tổ chức này phụ thuộc vào tình hình phát triển kinh tế – xã hội và quyết định của Ủy ban nhân dân tỉnh về tổ chức và hoạt động của tổ nhân dân tự quản.

Dưới đây là quy định về tổ nhân dân tự quản trên địa bàn tỉnh Bình Dương, theo quy định tại Quyết định số 27/2018/QĐ-UBND ban hành quy định về tổ chức và hoạt động của tổ nhân dân tự quản trên địa bàn tỉnh Bình Dương.

– Vị trí và chức năng:

Tổ nhân dân tự quản là tổ chức quần chúng tự quản về an ninh, trật tự và là yếu tố quan trọng trong phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc và các phong trào khác tại địa phương.

Tổ nhân dân tự quản được thành lập tại các khu phố, ấp và có chức năng tuyên truyền, vận động, thuyết phục các công dân thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước nhằm đảm bảo an ninh, trật tự, cũng như góp phần vào sự phát triển kinh tế – văn hóa – xã hội tại địa phương.

– Tổ chức của Tổ nhân dân tự quản:

Tổ nhân dân tự quản tại ấp có từ 30 đến 100 hộ dân, trong khi tại khu phố có từ 50 đến 150 hộ dân.

Mỗi Tổ nhân dân tự quản có Tổ trưởng, 01 Tổ phó và các hộ gia đình là thành viên. Tùy vào số lượng hộ dân trong Tổ nhân dân tự quản, có thể bổ nhiệm thêm 01 Tổ phó khi có hơn 100 hộ dân trong ấp hoặc hơn 150 hộ dân trong khu phố.

– Hoạt động của Tổ nhân dân tự quản:

Tổ nhân dân tự quản được lãnh đạo và chỉ đạo bởi Đảng ủy, Ủy ban nhân dân cấp xã, cũng như hưởng sự hướng dẫn từ Công an xã, phường, thị trấn (gọi tắt là Công an cấp xã). Ngoài ra, Tổ nhân dân tự quản còn chịu sự quản lý và điều hành trực tiếp từ Ban Điều hành khu phố, ấp.

Nhiệm kỳ hoạt động của Tổ trưởng và Tổ phó là 05 năm. Hàng năm, Ban Điều hành khu phố, ấp phối hợp với Ban công tác Mặt trận, các đoàn thể, Cảnh sát khu vực và Công an viên phụ trách ấp tổ chức đánh giá, nhận xét và phân loại chất lượng hoạt động của Tổ nhân dân tự quản.

Trường hợp thiếu Tổ trưởng hoặc Tổ phó, Ban Điều hành khu phố, ấp sẽ phối hợp với Ban công tác Mặt trận, Cảnh sát khu vực và Công an viên phụ trách ấp tổ chức bầu bổ sung và đề nghị Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã ra quyết định công nhận.

– Điều kiện và tiêu chuẩn của Tổ trưởng, Tổ phó Tổ nhân dân tự quản:

Tổ trưởng và Tổ phó phải là người trong Tổ nhân dân tự quản, có phẩm chất đạo đức tốt, có sức khỏe và từ 20 tuổi trở lên. Họ và gia đình họ phải gương mẫu trong việc tuân thủ chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và các quy định địa phương. Họ không được có tiền án, tiền sự. Họ cũng phải có tinh thần trách nhiệm cao, nhiệt huyết và tự nguyện tham gia tổ chức và hoạt động của Tổ nhân dân tự quản. Ngoài ra, họ cần có uy tín và được nhân dân trong Tổ tín nhiệm bầu chọn.

Việc bố trí đảng viên, đoàn viên, hội viên các đoàn thể, cán bộ chiến sĩ lực lượng vũ trang xuất ngũ hoặc kết thúc nghĩa vụ phục vụ quốc gia để đảm nhận vai trò Tổ trưởng hoặc Tổ phó trong Tổ nhân dân tự quản được khuyến khích.

Ban Điều hành khu phố, ấp phối hợp với Ban Công tác Mặt trận Tổ quốc, Cảnh sát khu vực và Công an viên phụ trách ấp sẽ lựa chọn người đáp ứng các tiêu chuẩn và điều kiện để đưa vào danh sách đề xuất và tổ chức buổi họp với các hộ dân trong Tổ nhân dân tự quản để bầu Tổ trưởng và Tổ phó thông qua bỏ phiếu kín hoặc biểu quyết. Sau đó, Ban Điều hành khu phố, ấp sẽ lập danh sách đề nghị Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã ra quyết định và cấp Giấy chứng nhận tương ứng.

– Nhiệm vụ của Tổ trưởng và Tổ phó Tổ nhân dân tự quản:

Vận động các hộ dân trong Tổ tuân thủ tốt các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các quy định của địa phương và các phong trào khác. Tổ trưởng và Tổ phó cũng tham gia và tổ chức vận động các hộ dân trong Tổ phát hiện, tố giác và đấu tranh chống tội phạm, loại trừ các tệ nạn xã hội và các hành vi vi phạm pháp luật khác. Họ vận động các hộ dân thực hiện đúng các quy định về đảm bảo trật tự an toàn giao thông, trật tự công cộng, trật tự đô thị, bảo vệ và vệ sinh môi trường, phòng chống cháy, nổ, thiên tai và dịch bệnh.

Khi phát hiện những đối tượng nghi vấn trong Tổ có những biểu hiện sau đây, Tổ trưởng, Tổ phó phải báo cáo ngay cho Cảnh sát khu vực, Công an viên phụ trách ấp hoặc Trưởng Ban Điều hành khu phố, ấp:

– Tuyên truyền xuyên tạc chế độ, xuyên tạc chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, tàng trữ, lưu trữ, truyền bá tài liệu có nội dung phản động, khiêu dâm, kích dục, kích động bạo lực, tuyên truyền đạo trái phép, kích động phá hoại đại đoàn kết toàn dân tộc;

– Kích động, xúi giục tranh chấp, khiếu kiện trái pháp luật, người đã xuất cảnh hoặc rời khỏi địa phương một thời gian dài mà không rõ lý do, người có thông tin cho rằng đã qua đời nhưng lại xuất hiện tại địa phương, người không khai báo cư trú;

– Những người lạ đến cư trú tại Tổ với nghi vấn, người vi phạm pháp luật, người nước ngoài đến địa phương mà không thông báo hoặc có hoạt động tìm hiểu thông tin liên quan đến tôn giáo, dân tộc, dân chủ, nhân quyền;

– Người mua bán, sử dụng, tàng trữ vũ khí, công cụ hỗ trợ, vật liệu nổ trái phép; người mua bán, tàng trữ, sử dụng, vận chuyển chất ma túy, pháo và đồ chơi nguy hiểm cho trẻ em đã bị cấm; người tham gia hoạt động tệ nạn xã hội;

– Tham gia truy bắt các đối tượng có lệnh truy nã và người vi phạm pháp luật bị bắt quả tang, vận động người phạm tội tự thú, bảo vệ hiện trường, cấp cứu người bị nạn (nếu có).

Tham gia quản lý, giáo dục và giúp đỡ người đã hoàn thành án tù, trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục, cơ sở cai nghiện và cơ sở chữa bệnh bắt buộc trở về địa phương. Họ cũng tham gia quản lý người bị kết án và đang thụ án treo, người đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn theo thủ tục tố tụng giáo dục tại xã, phường, thị trấn và người bị xử phạt vi phạm hành chính nhiều lần.

Hòa giải các mâu thuẫn và tranh chấp trong cộng đồng và xây dựng mối quan hệ đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau trong nhân dân và tích cực tham gia các phong trào phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội và các phong trào khác tại địa phương.

– Quyền hạn của Tổ trưởng và Tổ phó Tổ nhân dân tự quản:

Tổ trưởng và Tổ phó tụ họp và chủ trì cuộc họp của Tổ nhân dân tự quản để tuyên truyền, phổ biến cho các hộ dân trong Tổ các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và các quy định của địa phương khi có yêu cầu của Ban Điều hành khu phố, ấp.

Họ có quyền bắt giữ và tước vũ khí, thu giữ tang vật và dẫn giải người vi phạm pháp luật, người bị truy nã, truy tìm để đưa đến đơn vị Công an hoặc cơ quan chính quyền gần nhất.

Họ cũng tham gia vào việc xem xét và đề nghị các đối tượng được hưởng các chính sách xã hội theo quy định của pháp luật, xét tặng các danh hiệu trong phong trào Xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh, phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc và các phong trào khác.

Họ được đào tạo về kiến thức pháp luật và hướng dẫn nghiệp vụ về công tác đảm bảo an ninh, trật tự tại cơ sở.

Vì vậy, tổ nhân dân tự quản thực sự là “cánh tay nối dài” của chính quyền và là một trong những cơ quan đóng góp quan trọng trong công tác quản lý hành chính nhà nước, kết chặt tình đoàn kết dân tộc từ quy mô nhỏ nhất và bày tỏ những nguyện vọng chính đáng của người dân đến các cơ quan có thẩm quyền.

Related Posts