Tôi gặp gỡ ông nhiều lần, chủ yếu là để viết về Đại lễ Phật đản Liên Hiệp Quốc (VESAK) đã được tổ chức tại Việt Nam sắp tới, trong đó ông đang là Chủ tịch Ủy ban quốc tế (IOC) và Tổng thư ký Ủy ban điều phối quốc gia của sự kiện này. Tôi cũng đã đọc nhiều cuốn sách do ông viết. Tuy nhiên, với kiến thức hạn chế của tôi, việc hiểu về nhân cách và kiến thức phi thường của vị thiền sư này không dễ dàng chút nào.
Ông không chỉ là một thiền sư, mà còn là một nhà khoa học với nhiều bằng tiến sĩ, thông thạo hơn 15 ngôn ngữ (Anh, Pháp, Nga, Đức, Nhật, Trung Quốc, Ấn Độ, Do Thái, Hy Lạp, Ả Rập, Tây Tạng, chữ Phạn, chữ Hán cổ…). Ông cũng là một người Việt Nam “gốc rễ” với lòng tự trọng và tự hào về dân tộc của mình, thể hiện rõ ràng trong tất cả các nghiên cứu khoa học của ông.
Bạn đang xem: Thiền sư Lê Mạnh Thát và những phát hiện lịch sử chấn động
Trước khi nói về VESAK, tôi muốn ghi lại một số điều sau khi đọc, nghe ông nói và hỏi rõ về những khám phá của mình về cội nguồn dân tộc và nhiều sự thật lịch sử của quê hương đã bị che đậy hoặc hiểu sai lệch trong hàng nghìn năm qua.
“Ông Lê Quý Đôn khiến mọi người ngạc nhiên!”
Dưới đây là hai bài thơ chữ Hán, theo tôi thì cả hai đều rất hay và sâu sắc:
Nhị bát giai nhân thích tú trì
Tử kinh hoa hạ chuyển hoàng ly
Khả liên vô hạn thương xuân ý
Tận tại đình châm bất ngữ thì
(Tạm dịch: Những cô gái xinh đẹp trẻ năm mười sáu
Xem thêm : Thủ môn Bùi Tấn Trường ra mắt phim tự truyện 'Tôi là ai?'
Trên hoa lên hạ chuyển con chim hoàng ly
Có thể thấy sự vô hạn của tình yêu xuân nồng nàn
Ở mái chùa yên bình, không có lời nói)
Đây là bài thơ Xuân nhật tức sự, được Lê Quý Đôn chép trong Kiến văn tiểu lục và được cho là của thiền sư Huyền Quang thời nhà Trần (1254-1334). Tuy nhiên, trong tạp chí Văn học số 1-1984, giáo sư Lê Mạnh Thát đã trình bày chứng cứ để chỉ ra rằng bài thơ này không phải là của Huyền Quang mà là của thiền sư Ảo Đường Trung Nhân (?-1203) thuộc thời nhà Tống ở Trung Quốc.
Bài thơ khác:
Nhạn quá trường không
Ảnh trầm hàn thủy
Nhạn vô di tích chi ý
Thủy vô lưu ảnh chi tâm
(Tạm dịch: Chim nhạn bay dài trong không trung
Ảnh chìm dưới dòng sông lạnh
Xem thêm : Khoa Pug là ai? Hé lộ khối tài sản kếch xù cùng phi cơ 115 tỷ đồng
Chim nhạn không để lại di tích
Dòng sông không lưu lại hình ảnh)
Bài thơ này cũng được Lê Quý Đôn chép trong Kiến văn tiểu lục và được cho là của Hương Hải thiền sư thời nhà Lê. Tuy nhiên, trong cuốn Toàn tập Minh Châu Hương Hải, giáo sư Lê Mạnh Thát đã “trả” bài thơ này cho thiền sư Thiên Y Nghĩa Hoài thuộc thời bên Trung Quốc dưới triều đại Tống. Ngoài ra, giáo sư Thát cũng đã chỉ ra rằng trong số 59 bài thơ được cho là của Hương Hải do học trò của thiền sư chép trong Hương Hải thiền sư ngữ lục, có đến 47 bài không phải do thiền sư viết. Lê Quý Đôn đã chép lại 43 bài trong Kiến văn tiểu lục, và tất cả đều là của các thiền sư Trung Quốc. “Ông Lê Quý Đôn khiến mọi người bất ngờ!” ông nói đùa với tôi. Dù ông chỉ đang nói đùa, nhưng ông biết rõ rằng Lê Quý Đôn là một người rất cẩn thận. Ông cho rằng việc này có thể do Lê Quý Đôn không biết, tức là không có cơ hội để đọc các tác phẩm lịch sử về thiền tông Trung Quốc. “Hơn nữa, Lê Quý Đôn, với tư cách là một Phật tử, có thể đã quá tin tưởng vào bản in Hương Hải thiền sư ngữ lục, và nghĩ rằng các thơ kệ và ngữ lục trong đó là của Minh Châu Hương Hải, vì chúng đã được môn đồ của thiền sư này cho khắc in, nên ông đã không tiến hành kiểm tra, tìm hiểu và so sánh,” ông viết.
Toàn tập Minh Châu Hương Hải là một trong nhiều công trình nghiên cứu lịch sử của giáo sư Lê Mạnh Thát. Trong quá trình tìm tòi, đối chiếu, xác minh và giới thiệu các đóng góp quan trọng trong lịch sử tư tưởng, văn học và Phật giáo Việt Nam của vị thiền sư này, ông đã cẩn thận “trả lại” những gì không phải do thiền sư viết, thậm chí là những viên ngọc quý (như bài thơ ở trên). Đối với những nhân vật khác, ông cũng thực hiện tương tự. Ông cho rằng những sai lầm trong các tác phẩm lịch sử như vậy không chỉ không làm tăng thêm vinh quang cho dân tộc mà còn gây hại vô cùng, nó khiến cho người ta nghi ngờ những cống hiến quan trọng của các nhân vật lịch sử của đất nước, đặc biệt là khi các nhà sử học nước ngoài tiếp cận những tư liệu này.
Tôi đã đưa ra những chi tiết nhỏ trên đây để thấy sự cẩn thận trong việc nghiên cứu của giáo sư Lê Mạnh Thát. Ngoài sự cẩn thận, ông còn có một lợi thế tự nhiên khó có học giả nào có được. Với tư cách là một thiền sư, ông đã đọc tất cả những thi tập lớn như Đại tạng kinh và Tục tạng kinh chữ Hán, nhưng ông làm điều đó chủ yếu để “thưởng thức”. Chính vì vậy, ông đã biết khi đọc Tục tạng kinh chứa câu chuyện về thiền tông Trung Quốc (trong đó có bài thơ Xuân nhật tức sự), vì vậy khi nghiên cứu về Huyền Quang và Hương Hải, ông đã phát hiện ra sự nhầm lẫn.
Lịch sử dân tộc bảo tồn trong kinh Phật
Lục Độ tập kinh là một tập kinh quan trọng trong Đại tạng kinh của Phật giáo trên thế giới. Tập kinh này đã được dịch sang chữ Hán vào thế kỷ thứ 2 và từ đó đến nay, nó gồm 8 quyển, 91 truyện, mô tả sáu hạnh vượt truyền thống của Bồ tát gồm bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ. Caod tu sĩ từ Đông sang Tây đều biết đến tập kinh này và nó đã được dịch sang tiếng Pháp và tiếng Nhật từ lâu.
Lần đầu tiên sau gần hai ngàn năm, giáo sư Lê Mạnh Thát đã có những khám phá rất quan trọng từ Lục Độ tập kinh. Ông khẳng định rằng tập kinh đó là của Việt Nam, nó được dịch từ một bản tiếng Việt sang chữ Hán chứ không phải từ bản dịch tiếng Phạn; Bản dịch kinh do Tăng Khương Hội thực hiện, một người mà sử sách cổ Trung Quốc coi là “nhà hiền tài”, là một người Việt Nam (ít nhất là sinh ra, lớn lên, học tập, tu hành và làm việc tại Việt Nam). Với kiến thức sâu rộng về lịch sử, văn hóa và ngôn ngữ, ông đã tra tận nguồn tất cả những tài liệu cổ nhất có liên quan, tiến hành nghiên cứu, đối chiếu, kiểm định và đưa ra một loạt kết luận với những bằng chứng không thể bác bỏ. Ông cho rằng tập kinh chứa “một số lượng khổng lồ” các ý tưởng, quan điểm và đạo lý mang tính chính trị và lịch sử đặc trưng của Việt Nam.
Phát hiện đầu tiên là Lục Độ tập kinh chứa truyền thuyết về nguồn gốc dân tộc, đó là câu chuyện về trăm quả trứng. Điều này rất quan trọng, bởi vì truyền thuyết đó đã được ghi vào sử sách từ bộ Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sỹ Liên. Qua việc tham khảo, chúng ta có thể thấy rằng câu chuyện này cũng được ghi trong Lĩnh Nam chích quái. Ngoài ra, chúng ta không thể biết chính xác nó xuất phát từ đâu, chỉ thấy rằng nó liên quan đến câu chuyện về Liễu Nghi từ… Trung Quốc. Cho đến nay, nhiều tranh luận đã tập trung vào việc chấp nhận hoặc phủ nhận truyền thuyết này, nhưng việc chấp nhận hoặc phủ nhận nó không phải là một vấn đề về lịch sử. Mỗi dân tộc đều có truyền thuyết về khởi nguyên, và hầu hết các truyền thuyết đều chứa đựng yếu tố huyền bí, nhưng đó là biểu tượng tâm linh của dân tộc. Với Lục Độ tập kinh, chúng ta đã tìm thấy thời điểm hình thành của biểu tượng tâm linh của dân tộc mình.
Trong quá trình khám phá truyền thuyết trăm quả trứng trong Lục Độ tập kinh, giáo sư Lê Mạnh Thát còn phát hiện một sự thật lịch sử thú vị liên quan đến An Dương Vương và Triệu Đà. Từ truyền thuyết trăm quả trứng trong truyện thứ 23 của Lục Độ tập kinh, ông so sánh với một bản dịch tiếng Phạn khác và phát hiện rằng truyền thuyết về An Dương Vương tương tự như câu chuyện về trận chiến giữa hai anh em Pandu và Duryodhana trong anh hùng ca Mahàbhàrata. So sánh với tất cả những gì được ghi trong Sử Ký của Tư Mã Thiên và các tài liệu cổ sử khác của Trung Quốc, ông khẳng định rằng truyền thuyết An Dương Vương đánh bại Vua Hùng thứ 18 và sau đó lập một triều đại (theo sử sách Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sỹ Liên) là không có căn cứ, thực tế đó chỉ là một phiên bản của câu chuyện Mahàbhàrata từ Ấn Độ được truyền vào Việt Nam thời Vua Hùng. Ông cũng tiếp tục so sánh các sử sách và khẳng định rằng không có chuyện Triệu Đà đánh An Dương Vương (vì không có An Dương Vương để đánh!) và nước ta cũng không bao giờ bị chiếm bởi Triệu Đà. Nước Nam Việt của Triệu Đà chưa bao giờ bao gồm cả Việt Nam. Điều này có nghĩa là cho đến năm 43 sau công nguyên, trước khi chiến tranh vệ quốc của Hai Bà Trưng thất bại, nước ta vẫn là một quốc gia độc lập. Đó là triều đại Vua Hùng, là nhà nước Vua Hùng. Nhà nước đó đã được xây dựng trên cơ sở văn hóa của riêng nó, có luật lệ, có chữ viết, có lịch sử, có âm nhạc, có văn học… Nhà nước đó, nền văn minh đó không phải là do người Trung Quốc “khai hóa” mà có. Nó tồn tại với đủ sự mạnh mẽ và cường đại để tiếp thu những giá trị tinh thần và để tự bảo vệ trước âm mưu thôn tính của các nước khác. Thật là một trong những minh chứng sống động cho nền văn minh chung của nhân loại. Với những phát hiện của ông, chúng ta có đủ tài liệu để tái hiện lại lịch sử vẻ vang của dân tộc ta từ hai ngàn năm trước… (tiếp theo)
H.H.V
Nguồn: https://stamboom-boden.com
Danh mục: Là Ai