Ông Nguyễn Cao Kỳ và chuyến đầu tiên trở lại cố hương

Vào thời điểm 18 năm trước, sự kiện này thu hút sự quan tâm không chỉ trong nước mà còn của cộng đồng người Việt ở nước ngoài. Ông Nguyễn Cao Kỳ, một tướng quân với bộ râu kẽm, đã từng tặng chữ ký lên quả bom trước khi máy bay Mỹ bom phá miền Bắc Việt Nam – vùng đất của thị xã Sơn Tây, quê hương của ông. Ông cũng là một Phó Tổng thống nổi tiếng “chống cộng”, một cựu binh Việt Nam Cộng hòa trở thành “biểu tượng” của những người chống đối chính phủ Việt Nam sau năm 1975… và bất ngờ trở về quê hương!

Lịch trình của ông Nguyễn Cao Kỳ và vợ trong chuyến trở về quê hương năm đó được giữ kín. Một buổi sáng xuân, tôi theo sau chiếc xe đưa ông Nguyễn Cao Kỳ đến chùa Hương. Đến bến Đục, tôi lên một chiếc thuyền qua xa đò đang đưa ông Nguyễn Cao Kỳ ngâm mình trong sông Yến, thăm chùa Hương – nơi ông Nguyễn Cao Kỳ được sinh ra, vào năm 1930, cụ Nguyễn Văn Hiếu và vợ đã đến chùa để cầu nguyện, và sau đó sinh được một người con trai, được đặt tên là Nguyễn Cao Kỳ.

Con thuyền của tôi đi gần con thuyền của ông giữa hàng trăm con thuyền trên sông Yến trong chuyến hành trình trở về đất Phật. Ông Kỳ ngồi im lặng, vóc dáng mạnh mẽ, ánh mắt nhìn xa xăm. Ông đội mũ mềm và không đeo kính, có lẽ để nhìn rõ hơn dòng sông quê hương và tưởng nhớ chuyến hành trình của cha mình hơn 70 năm trước.

Người chèo thuyền của ông, người chèo thuyền của tôi và hàng ngàn người Việt khác không biết rằng cựu Phó Tổng thống của chính quyền Sài Gòn đang ôm ấp tâm hồn giữa sông nước quê hương…

Ông Nguyễn Cao Kỳ sinh ngày 8/9/1930 tại Sơn Tây, hiện nay thuộc Hà Nội, là con trai duy nhất trong gia đình có ba người con. Ông kể rằng, ngày ông được sinh ra là do cha mẹ ông cầu nguyện tại chùa Hương.

Cha của ông làm nghề giáo viên, nhưng lại thích đi xa, thường lên vùng núi để tìm niềm vui mạo hiểm và tránh xa sự tiếp xúc với người Pháp. Trong những năm 30 và 40 của thế kỷ trước, gia đình ông Nguyễn Văn Hiếu không phải là một cơ sở của cách mạng, nhưng ông là một điểm liên lạc của lực lượng du kích chống Nhật. Ông đã chia sẻ với con trai ông, Nguyễn Cao Kỳ, về căn cứ Việt Bắc và vị lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc.

Theo một số người đã có mối quan hệ đặc biệt với ông Nguyễn Cao Kỳ, ông đã từng trốn khỏi nhà để tham gia chiến đấu cùng Việt Minh, nhưng không thành công và gần như tử vong vì gặp phải quân địch khi đang đói bên bờ sông. Ông đã được gia đình đưa đi học tới nơi và đã học xong tại Trường Bưởi, Hà Nội. Năm 1952, ông Nhậm nhập ngũ cho quân đội Pháp, đi học tại trường đào tạo sĩ quan trừ bị khóa 1 tại Nam Định để phục vụ cho quân đội bảo hoàng dưới sự lãnh đạo của Bảo Đại.

Chắc chắn nếu ông Nguyễn Cao Kỳ không bị Pháp bắt lại khi trốn khỏi Trường Bưởi để theo Việt Minh, cuộc đời ông sẽ đi theo một hướng khác. Điều này cho thấy, khi xem xét nguyện vọng của ông và nhiều người Việt ở Mỹ muốn trở về thăm quê, chính quyền Việt Nam đã chú ý đến những chi tiết thời sự này.

Theo dòng thời gian, nhiều người trong chúng ta và cả cộng đồng Việt Nam ở nước ngoài, kể cả những người đã từng nắm giữ súng (thơ của Lưu Quang Vũ) đã vượt qua rào cản để trở về Tổ quốc.

Một số cựu lãnh đạo cao cấp của Việt Nam Cộng hòa tâm sự gần đây với một người bạn kiều bào ở Mỹ: “Chúng tôi không sợ mất nhà, mất cửa. Điều quan trọng là đất nước đã thống nhất. Vì dù sao chúng tôi cũng muốn đất nước thống nhất. Bên phía miền Bắc đã làm được điều này, và chúng tôi chấp nhận vì Tổ quốc là chung của tất cả chúng ta”. Như vậy, có một tinh thần thân thiện, giải quyết, suy nghĩ hoà hợp đã tràn lan trong tâm thức của người dân Việt Nam nói chung. Người Việt không có biên giới, tiếng Việt lan truyền khắp mọi nơi bởi lòng yêu nước, tất cả đều hướng về nguồn gốc.

Trong những năm gần đây, ngày càng có nhiều kiều bào Việt trên khắp thế giới trở về thăm quê hương. Nhiều kiều bào đã chia sẻ rằng khi họ bước xuống sân bay quê nhà, lòng bỗng tràn đầy tình yêu cho quê hương, họ cảm thấy có một sự vững chãi, tự tin rằng họ là người Việt Nam – một cảm giác mà họ chưa từng trải qua trong nhiều năm sống ở nơi khác.

Nhiều lần, kiều bào đã có cơ hội được Nhà nước tổ chức chuyến thăm quần đảo Trường Sa, hòa mình vào tiếng sóng biển Đông, chạm tay vào cột mốc để chung niềm tin, chung ý chí bảo vệ chủ quyền của Tổ quốc. Nhiều người Việt ở nước ngoài khi đến các đảo, đá, nhà giàn ở Trường Sa đã ôm chặt các chiến sỹ đảo, tin tưởng hơn vào ý chí và quyết tâm của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam để bảo vệ từng mảnh đất, từng không gian trời, vùng biển mà ông cha đã giữ gìn và truyền lại cho chúng ta. Điều này làm cho những tin tức không chính xác, những thông tin sai lệch, những vu khống trở nên vô nghĩa và xa lạ.

Đã 47 năm kể từ ngày đất nước thống nhất, ngày chiến thắng chung của dân tộc Việt Nam, đã trôi qua gần hai thế hệ một đời người, bà con ở nước ngoài dường như tấm lòng đã chảy về biển cả quê mẹ. Dù vẫn còn tiếng nói lươn lẹo, vẫn còn những kẻ xấu phá hoại nhà nước, nhưng số ít ấy không thể ngăn cản tấm lòng yêu nước của người Việt hòa quyện, hướng về việc xây dựng một quốc gia mạnh mẽ, bền vững.

Việt Nam đã tham gia Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc hai lần, đã điều hành thành công và được công nhận chất lượng phiên họp của Đại hội đồng quốc tế, khiến Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc Antonio Guterres phát biểu: “Ngày xưa tôi tham gia biểu tình phản đối chiến tranh, ủng hộ Việt Nam. Nay lại được ngồi nghe người đại diện Việt Nam điều hành phiên họp”, đó thực sự là sự thay đổi lớn.

Tôi lại nhớ đến những dòng lời trong bài hát “Tiếng Việt” của nhạc sĩ Lê Tâm sáng tác theo thơ của Lưu Quang Vũ, mỗi lần nghe lại cảm thấy xúc động: “Mỗi sớm dậy nghe bộn bề tha thiết/ Người qua đường cùng tôi làm một tiếng Việt/ Như viên muối chung lòng biển mặn/ Như dòng sông thương yêu chảy mãi”.

Và tôi nhớ lời của một nhà văn nào đó từng nói: Con người có thể rời xa quê hương. Nhưng không ai có thể rời xa quê hương ra khỏi con người.

Related Posts