I. Một số quy định liên quan đến yêu cầu phản tố
1. Về yêu cầu phản tố của bị đơn
Quyền yêu cầu phản tố của bị đơn được quy định tại khoản 1 Điều 200 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 như sau: “Bị đơn có quyền yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập, cùng với việc phải nộp cho Tòa án văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của nguyên đơn”.
Tuy nhiên, trong thực tế, vẫn có sự nhầm lẫn giữa yêu cầu phản tố của bị đơn và ý kiến của bị đơn. Điều này dẫn đến việc áp dụng pháp luật không chính xác và gây ảnh hưởng đến quyền lợi của đương sự trong vụ án hoặc vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
Bạn đang xem: Yêu cầu phản tố theo Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và vướng mắc trong thực tiễn
Trước đây, việc phân biệt yêu cầu phản tố và ý kiến của bị đơn được chỉ định trong Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP ngày 03 tháng 12 năm 2012 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao như sau:
– Yêu cầu phản tố của bị đơn đối với nguyên đơn, đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập nếu yêu cầu đó độc lập, không cùng với yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập yêu cầu Tòa án giải quyết.
Xem thêm : Dùng Windows nên 'Hibernate', 'Sleep' hay 'Shutdown'?
– Chỉ coi là ý kiến của bị đơn mà không phải là yêu cầu phản tố của bị đơn đối với nguyên đơn, đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập nếu bị đơn có yêu cầu cùng với yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập.
2. Về thời điểm bị đơn được đưa ra yêu cầu phản tố
Theo quy định tại khoản 3 Điều 200 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Tuy nhiên, BLTTDS năm 2015 không quy định rõ thời điểm cụ thể mà bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố. Điều này dẫn đến việc áp dụng pháp luật không nhất quán giữa các Thẩm phán. Cần có hướng dẫn và giải đáp cụ thể về vấn đề này.
II. Một số khó khăn trong thực tế
Dựa trên việc nghiên cứu các quy định pháp luật liên quan đến yêu cầu phản tố và thực tiễn giải quyết các vụ án có yêu cầu phản tố, tác giả đưa ra một số khó khăn cụ thể như sau:
1. Yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn có phải là yêu cầu phản tố?
Trong các vụ án ly hôn có yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng, có quan điểm cho rằng yêu cầu này của bị đơn không phải là yêu cầu phản tố. Tuy nhiên, tác giả đồng ý rằng yêu cầu chia tài sản của bị đơn là yêu cầu phản tố. Điều này vì yêu cầu chia tài sản là yêu cầu của bị đơn đối với nguyên đơn, buộc nguyên đơn phải thực hiện nghĩa vụ chia tài sản. Ngoài ra, yêu cầu chia tài sản của bị đơn có liên quan đến việc giải quyết vụ án và làm cho quá trình giải quyết vụ án trở nên thuận tiện và nhanh chóng hơn.
2. Yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có phải là yêu cầu phản tố?
Xem thêm : 11 Ứng dụng hài hước hay nhất của Android
Trong vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất, yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bị đơn không phải là yêu cầu phản tố. Điều này vì yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bị đơn là yêu cầu hủy quyết định cá biệt trong vụ án dân sự. Tòa án có quyền hủy quyết định cá biệt trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền xâm phạm đến quyền, lợi ích của đương sự trong vụ án dân sự.
3. Thay đổi, bổ sung yêu cầu phản tố sau khi Tòa án đã mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải
Quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu phản tố của bị đơn không được quy định cụ thể trong BLTTDS năm 2015. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án có thể áp dụng và vận dụng pháp luật tương tự như quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
4. Quyền phản tố sau khi Tòa án đã mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải
Trong trường hợp Tòa án đã mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, bị đơn không có quyền đưa ra yêu cầu phản tố. Tuy nhiên, nếu có người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được tham gia tố tụng trong vụ án và có yêu cầu độc lập, bị đơn vẫn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố đối với người này.
Tổng hợp từ các quy định pháp luật và thực tiễn, cần có hướng dẫn cụ thể và giải đáp về vấn đề yêu cầu phản tố. Điều này giúp thực hiện pháp luật đồng nhất trong thực tế và đáp ứng các vướng mắc trong giải quyết vụ án.
Nguồn: Trích thông tin từ Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp
Nguồn: https://stamboom-boden.com
Danh mục: Là Gì